Được dạy bởi Sư Yuttadhammo Bhikkhu
Dịch Việt: Việt Hùng
Lời người dịch: Trong các bài Hỏi & Đáp như vậy, tôi sẽ chủ yếu dịch thoát ý, chứ không chặt chữ. Một mặt đây là việc tôi làm để có thể nghiền ngẫm phần trả lời của Sư Yuttadhammo. Một mặt, tôi chia sẻ lại đây, và hy vọng nó hữu ích cho các thiền sinh Vipassana tham khảo.
Bài pháp ngắn này nằm trong chương trình Monk Radio và được đăng tải trên Youtube vào ngày 16/07/2012. Phần English transcript ở cuối bài. Link Youtube của bài nói ở đây: https://www.youtube.com/watch?v=HKFSgacZHdc
CÓ BAO NHIÊU KIỂU THIỀN PHẬT GIÁO?
Câu hỏi: Có bao nhiều kỹ thuật thiền mà Đức Phật đã chỉ dạy?
Như đã có chia sẻ, tôi nghĩ rằng bạn không thể thực sự có con số đó. Tại sao tôi nói vậy? Bởi vì Đức Phật có một khả năng [tiếng Pali], khả năng nhìn thấy được năng lực của một người, năng lực nào đang không có và năng lực nào đang có ở trong con người mà Ngài đang dạy. Như vậy, Ngài biết ngay cách dạy họ. Ví dụ, có một vị sư, Ngài dạy sư cầm một miếng vải, đưa lên dưới ánh nắng mặt trời, và nó trở nên dơ bẩn. Và bởi vì một vài điều mà sư đã gieo trồng từ cuộc sống trong quá khứ, sư đã có thể đạt ngộ vào thời điểm đó. Như vậy, tôi nghĩ rằng các kỹ thuật thiền mà Đức Phật đã chỉ dạy chỉ bị giới hạn bởi số lượng học trò mà Ngài đã dạy. Khi Ngài sắp chỉ dạy, Ngài biết chính xác cách dạy cho đối tượng cụ thể đó. Đôi khi, Ngài đi thật xa để chỉ dạy cho một người. Bởi vì Ngài thấy rằng họ đã sẳn sàng để nghe lời người thầy và sẳn sàng để nhận ra sự thật.
Trong truyền thống Phật giáo Theravada, chúng tôi tách thiền thành hai loại, và có thể nói rằng Đức Phật cũng làm điều đó. Rằng Đức Phật dạy rằng có hai loại thiền có lợi ích, đó là thiền samatha (thiền định, thiền chỉ) và thiền vipassana (thiền tuệ). Như vậy, chúng tôi cố gắng giải thích những lời dạy của Đức Phật và nhiều kiểu thiền mà Đức Phật đã dạy phân loại theo hai loại thiền này.
Samatha gieo trồng sự tĩnh lặng, bình yên. Vipassana gieo trồng tuệ giác, hiểu biết sâu sắc. Dường như khá rõ ràng rằng một số loại thiền không thể trực tiếp dẫn đến trí tuệ được. Bởi vì chúng tập trung vào một khái niệm. Ví dụ, nếu bạn tập trung vào ánh sáng, như các bạn đã biết có nhiều loại thiền truyền thống thực hành việc tập trung vào màu trắng hoặc một vật gì đó. Tôi đã ghi hình video này cho đối tượng thiếu niên, để dạy các em căn bản về cách để tập trung vào một điều gì đó. Tôi đã hướng dẫn để tập trung vào màu sắc trong video. Tôi không biết đã có bao nhiêu bé thực sự xem, nó đã được đăng. Nhưng điều đó (cách tập trung vào màu sắc) không thể dẫn đến trí tuệ sâu sắc được. Loại thiền đó được gọi là thiền samatha. Bạn có thể nhìn chằm chặp vào màu trắng bao lâu tuỳ bạn muốn, nhưng không có điều gì về cách mà thực tại đang vận hành trong việc định tâm vào màu trắng cả. Nếu bạn tập thiền samatha, tập trung vào hình ảnh của Đức Phật, Đức Chúa, … không có điều gì trong đối tượng (đang quan sát) có thể dẫn đến tuệ giác sâu sắc được. Đức Phật dạy chúng tôi đọc tụng là để học thuộc lòng, nhắc nhở về các phẩm hạnh của Đức Phật. Và đó cũng là một loại thiền samatha.
Thiền vipassna là loại thực hành để có thể nhìn thấy một cách rõ ràng. Bạn sẽ sử dụng đối tượng thiền này, ví dụ, cái đĩa này, và bạn sẽ bắt đầu nhìn nó một cách khác đi. Khi tâm trí của bạn trở nên định tĩnh thông qua việc thực hành thiền samatha, bạn sẽ bắt đầu xem xét, nghiên cứu nó chỉ đơn giản như là đang nhìn. Như Đức Phật có dạy, [tiếng Pali]. Một vị sư đã hỏi Ngài pháp chính xác nhất, cách thực hành chính xác nhất, nhanh nhất để có thể đạt ngộ? Và Đức Phật đã dạy cho vị sư đó con đường ngắn nhất. Và đó là lý do tại sao bản kinh đó rất quan trọng. Bởi vì, đó là câu trả lời cho câu hỏi, ‘con đường ngắn nhất là gì?’
Và Đức Phật đã dạy rằng, [tiếng Pali] hãy huấn luyện bản thân bạn để thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe, ngửi chỉ là ngửi, nếm chỉ là nếm, cảm nhận chỉ là cảm nhận, suy nghĩ chỉ là suy nghĩ. Khi bạn có thể làm được điều đó, sẽ không còn cái tôi nào ở đó nữa cả. Bạn sẽ không có bất cứ dính mắc nào nữa vào bất cứ thứ gì. Bạn sẽ không tìm thấy mình trong bất cứ thứ gì nữa. Khi bạn có thể làm được điều đó, bạn sẽ trở nên tự do. Bằng cách đơn giản thực hành như vậy, Bahia đã có thể đạt ngộ, trong khi đang ngồi đó, đảnh lễ dưới chân Đức Phật (hoặc đứng ở đó cùng với Đức Phật) lắng nghe Ngài chỉ dạy.
Đó là thiền vipassana. Khi bạn bắt đầu nhìn vào sự việc như chúng đang là, thay vì cố gắng gieo trồng thêm các trạng thái hoặc sự tập trung cụ thể nào đó, bạn bắt đầu nhìn thấy, ngay cả các trạng thái của tâm định. Tôi thường nhận được câu hỏi này từ những thiền sinh đang tự thực hành, những người không thực hành với sự hướng dẫn của một vị thầy. Họ thường chia sẻ … sau một thời gian, họ đạt vào một trạng thái của “hư vô”, không có gì ở đó cả. Họ thực hành một loại thiền nào đó một thời gian, và đột nhiên, họ rơi vào một trạng thái mà ở đó chẳng có gì cả, chẳng có hơi thở cho dù họ đang quan sát hơi thở. Hoặc là chỉ có hình ảnh Đức Phật, nếu họ suy nghĩ về Đức Phật. Ngoài ra, chẳng có gì ở đó nữa cả. Và họ chẳng biết phải làm gì kế tiếp tại thời điểm đó.
Đó là chỗ mà thiền vipassana sẽ điền vào. Đó là nơi bạn bắt đầu xem xét ngay cả các trạng thái tâm, mà trong trường hợp này là sự bình yên, định tĩnh. Bạn cần bắt đầu quan sát cả các trạng thái tâm đó. Bởi vì, bạn sẽ thấy rằng thực ra đó cũng là các trạng thái tâm có nguồn gốc. Bạn nói thầm, ‘định tĩnh, định tĩnh’ hoặc ‘bình yên, bình yên’. Và bạn sẽ nắm lấy được cảm nhận của bạn, bạn thấy được sự thích, sự dính mắc, và sự khuyến khích một cách tinh tế đang tồn tại trong tâm của bạn, khiến bạn sẽ hết lần này đến lần khác rơi vào trạng thái tâm đó trở lại. Rồi bạn sẽ bắt đầu thấy được rằng, chúng cũng chỉ là vô thường (sinh-diệt liên tục), bất toại nguyện và không điều khiển được. Chúng không tồn tại mãi được. Chúng không thực sự mang lại cho bạn hạnh phúc và bình yên thực sự, mãi mãi. Và bạn có thể từ bỏ các trạng thái tâm đó. Dĩ nhiên, kết quả là buông bỏ mọi thứ (kể cả những thứ ít làm bạn hài lòng hơn).
Như vậy, có hai loại thiền. Loại thứ nhất là sự thực hành nhằm đem lại sự định tĩnh. Loại thứ hai là sự thực hành nhằm đem lại tuệ giác sâu sắc. Và bạn có thể nói rằng về cơ bản Đức Phật đã chỉ dạy hai loại thiền như vậy. Đối với những ai có thời gian, Ngài sẽ dạy thiền samatha trước và sau đó dạy về tuệ giác sâu sắc. Đối với những ai không có thời gian, Ngài sẽ dạy họ cả samatha và vipassana cùng lúc. Tôi có thể giải thích như sau. Có 2 đặc tính của tâm. Một là sự định tĩnh, tập trung và đặc tính còn lại là trí tuệ hay sự hiểu biết sâu sắc. Bạn sẽ cần cả hai, samatha và vipassana. Một vài người sẽ thực hành samatha trước và sự tập trung của họ sẽ đạt lên đỉnh điểm mà không có tuệ giác sâu sắc nào. Tâm của họ tập trung, định tĩnh, nhưng họ lại không thực sự có một đầu mối nào về thực tại (cách mà thực tại vận hành). Rồi họ bắt đầu phát triển tuệ giác cho đến khi tuệ giác bắt kịp với sự định tĩnh và giao thoa với nhau. Khi hai đặc tính này gặp nhau, đó là thời điểm họ chứng ngộ niết bàn.
Có một con đường khác và đó là con đường mà hầu hết các vị thầy đang chỉ dạy vào thời nay. Các thiền sinh được dạy để phát triển cả hai đặc tính tâm này cùng lúc. Tại cùng thời điểm bạn phát triển định tậm, bạn đang tập trung vào một đối tượng, ví dụ khi đang ngồi thiền, bạn quan sát sự phồng và xẹp của bụng hoặc quan sát mũi, bạn cũng tập trung vào thực tại, tại cùng thời điểm đó. Bạn phát triển quan sát thực tại theo cách tập trung, định tâm. Như vậy, tại cùng một thời điểm bạn phát triển cả tuệ giác lẫn định tâm. Chúng đi cùng nhau, bạn vẫn phải cần cả hai, và chúng cũng sẽ dẫn bạn đến niết bàn, nhưng chúng đi song hành cùng nhau.
Có một cách thứ ba. Và Đức Phật đã dạy như sau. Bạn thực hành để nhìn mọi việc một cách rõ ràng trước mà không có bất cứ sự tập trung, định tâm nào. Đây có thể là lúc bạn nghiên cứu, suy nghĩ rất nhiều, khi bạn điều nghiên thực tại nhưng lại không có nhiều sự định tâm, tập trung. Rồi sau đó, bạn bắt đầu làm tâm bạn vắng lặng. Vipassana trước, sau đó mới đến samatha. Có hẳn một bản kinh trong đó Đức Phật dạy các cách khác nhau để đạt ngộ. Và đó cũng là chỗ có nhiều sự tranh luận trong Phật giáo. Bởi vì, mọi người đều muốn nói rằng, ‘ồ, không, không, chỉ cách này mới là đúng’, hoặc ‘chỉ cách kia mới là đúng’. Nhưng điểm mấu chốt là có 2 khía cạnh của việc hành thiền. Chúng có thể được phát triển riêng lẻ, nhưng sau cuối cần phải quân bình và kết hợp với nhau để có thể dẫn tới việc đạt ngộ.
Mặc dù đã cố gắng tốt nhất trong khả năng của mình, tôi chắc chắn không thể ghi xuống được một cách chính xác 100% tất cả các từ ngữ, đặc biệt là các từ Pali mà Sư đề cập trong bài pháp. Tôi sẽ tiếp tục cập nhật bản ghi, bất cứ khi nào tôi thấy được những điểm còn thiếu sót.
Con xin thành kính đảnh lễ tạ ơn Sư Yuttadhammo về bài pháp thoại ngắn quí báu này. Con nguyện cho Sư được mọi thuận lợi và sức khoẻ trong hành trình tâm linh của Sư.
Các bạn có thể tìm hiểu thêm thông tin của Sư Yuttadhammo Bhikkhu và các lời dạy của Sư tại trang web: https://www.sirimangalo.org/.
English Transcript (quickly jotting down)
Quetion: When I meditate, I always want to investigate my thought, why I’m feeling that, what is the reason of my fear? What is the cause of this? Is it a good thing to do?
You have to understand what the purpose of meditation is. That’s finding out the cause of things is not the true purpose of meditation. It’s interesting. But we have to see the flaw in what you’re saying. The reality is like a river, everything, it goes in order, right? But on the other hand, it’s quite complex. So to say X is the cause of Y is a simplistic understanding of how things work. If you sit there and what you’re talking about is saying, ‘OK, I’m I’m angry this morning’. And the cause is that I was unmindful, you know, and I allowed experience to lead to anger. That’s that’s one part of the story. The question is, why were you unmindful in the first place? And what happened in between the time when you were unmindful and the time when you got angry? There’s many things going on. Pinpointing one specific thing as saying this is a cause, intellectually, it has some value then because you say, oh, well, then I should be more mindful.
And that sort of thing does happen in meditation. But that’s not meditation. It doesn’t solve the problem. In fact, meditation does begin by identifying momentary causes. So from one moment to the next, seeing what cause precedes what result. But it’s still a very limited, very preliminary basic understanding. That understanding is also not enough. It’s not the true reason for practicing. It’s not the highest insight. Highest insight is to see that things arise based on a cause, to see things are dependently reason. That’s it, not what was the cause, but to see the things arising and ceasing it comes and then it goes. So that’s to see impermanence. It’s also to see dukkha, which means an inability to satisfy because it’s impermanent and non self to see that there’s no essence to it. It’s about the Dhamma itself, about the experience itself. That’s what we’re most interested in. Because the cause of suffering is simply attachment to things, so cause and effect doesn’t directly, indirectly can be useful, but directly does not tie into that. The craving is simply caused by seeing that things are stable, satisfying and controllable.
Once you see that things are not that, then you let go of them. And when you let go of them, you become free. When you’re free, you say I’m free. Nothing more needs to be done. So is it useful? Yes, arguably that has some intellectual benefit because it’s going to say, well, then I shouldn’t do that or I shouldn’t judge myself. It allows you to be a sort of a meta analysis that allows you to adjust your practice. This is what we call [Pali word] and allows you to succeed. So there’s a benefit to it. I don’t think that it’s a replacement to meditation. It’s not, it’s a non meditative process. At that moment, you’re actually not meditating. Because you’re not observing things simply as they are. You’re reflecting on the mirror intellectualizing about them. You’re reflecting, processing your memories of things which in fact can be flawed. But that’s not the biggest problem. The biggest problem is it’s memories. This happened like this happened like this, which is all in the past. And it cannot be a replacement for true insight, so not wrong, not bad, but not in segment.
Bài gốc được SMP đăng lại từ: https://viethungnguyen.com/2021/08/08/hoi-dap-thien-co-bao-nhieu-kieu-thien-phat-giao/